Thursday, 25/04/2024 - 08:15|
Chào mừng bạn đến với cổng thông tin điện tử của Trường THCS Trung Nghĩa
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

CHUYÊN ĐỀ CẤP CỤM: Áp dụng phương pháp chơi trò chơi trong một tiết dạy Ngữ Văn lớp 6 nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh.

A. PHẦN MỞ ĐẦU

1.Cơ sở lí luận

*Vai trò, ý nghĩa của việc áp dụng phương pháp “Trò chơi” trong dạy học nói chung và dạy học văn nói riêng.

          Trò chơi là một hoạt động hướng tới mục đích chủ yếu là vui chơi, giải trí, thư giãn giúp cho tinh thần, đầu óc của con người được thoải mái, sảng khoái sau những giờ làm việc, học tập mệt mỏi.

 Phương pháp tổ chức chơi trò chơi hiện nay là một trong những phương pháp phổ biến trong dạy học nói chung và dạy học môn Ngữ Văn nói riêng nhằm hướng tới mục tiêu vừa hình thành năng lực phẩm chất,  vừa phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh.Người giáo viên khi áp dụng phương pháp này vào dạy học sẽ tạo ra không khí lớp học sôi nổi, tạo môi trường, điều kiện cho nhiều học sinh được tham gia hoạt động học tập hơn ( kể cả  những học sinh trung bình, yếu, kém) .

Phương pháp tổ chức chơi trò chơi trong dạy học sẽ phát huy tinh thần, định hướng học tập trong giai đoạn mới hiện nay đó là : “Chủ động, sáng tạo”, “Học mà chơi, chơi mà học” . Qua quá trình học tập, hợp tác, nghiên cứu, tìm hiểu nội dung bài học hầu hết các em học sinh sẽ nêu cao tinh thần đoàn kết, ý thức tự giác, chủ động tự học , tự sáng tạo, có kĩ năng tự xử lí tình huống, tiếp nhận thông tin, giải quyết các vấn đề thực tiễn phát sinh. Như vậy quá trình học tập sẽ vừa sôi nổi, hào hứng vừa vui chơi, vừa học tập một cách có hiệu quả.

Học tập qua trò chơi còn rèn cho học sinh tinh thần đoàn kết gắn bó, biết hỗ trợ giúp đỡ nhau trong quá trình học tập, tiếp thu kiến thức. Có sự phối kết hợp nhịp nhàng, linh hoạt giữa các thành viên trong đội nhóm trong học tập, hình thành ở các em lòng nhân ái, tình yêu thương mọi người trong cuộc sống hàng ngày.

Phương pháp chơi trò chơi là một phương pháp dạy học mới, có tính tích cực, không áp đặt, gò ép người học theo một khuôn mẫu được định sẵn, cho trước và nếu sử dụng thành công khả năng sáng tạo của học sinh sẽ được phát huy tuyệt đối vì học qua trò chơi thì học sinh sẽ tiếp thu bài học một cách tự nhiên, chủ động nhất so với khả năng có thể của bản thân mình. Khi người học tự mình tìm hiểu, nắm bắt thông tin, tiếp thu kiến thức thì quá trình học tập, ghi nhớ nội dung bài học sẽ dễ dàng và sâu sắc, cụ thể hơn so với cách học thông thường.

Một trong những ưu điểm nổi bật của phương pháp chơi trò chơi là giúp học sinh có được tác phong nhanh nhẹn, hoạt bát, có sự nhạy bén trong hoạt động học tập. Bản chất của trò chơi là sự ganh đua, là kết quả thắng, thua giữa các nhóm các đội. Vì vậy khi dùng trò chơi trong dạy học sẽ kích thích  sự tập trung, tinh thần hăng say, nhiệt tình tham gia học tập của học sinh. Qua trò chơi hóc inh sẽ được rèn luyện khả năng  lựa chọn ,quyết định cho mình  cách ứng xử đúng đắn, phù hợp với tình huống qua trò chơi học sinh được hình thành năng lực quan sát, được rèn luyện kĩ năng nhận xét, đánh giá hành vi, giúp tăng cường khả năng giao tiếp giữa học sinh với học sinh, giữa giáo viên với học sinh.

Như vậy : Trò chơi là phương tiện có ý nghĩa trong việc góp phần thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo và gây hứng thú trong giờ học của học sinh. Ngoài ra thông qua hoạt động trò chơi còn giúp các em phát triển được nhiều phẩm chất đạo đức như tình đoàn kết, thân ái, lòng trung thực, tinh thần cộng đồng trách nhiệm. Do vậy quan điểm “Thông qua hoạt động vui chơi để tiến hành hoạt động học tập” là phù hợp với từng lứa tuổi, từng môn học đặc biệt là đối với bộ môn Ngữ Văn.

2. Cơ sở thực tiễn

Với những hiệu quả giáo dục mà phương pháp trò chơi mang lại hướng tới mục tiêu “Học mà chơi, chơi mà học”  thì bất cứ ai, giáo viên nào cũng biết nhưng để vận dụng và biết cách tổ chức, tiến hành các hình thức, hoạt động giúp học sinh học – chơi,  chơi – học thì không phải ai cũng làm được. Giáo viên tuy có ý thức đổi mới phương pháp dạy học nhưng nhìn chung vẫn còn chịu nhiều ảnh hưởng của phương pháp dạy học trước đây. Điều này dẫn đến việc học sinh phải học tập một cách thụ động, gò ép thiếu sáng tạo, không có hứng thú, say mê trong học tập đặc biệt là với bộ môn Ngữ Văn thì sẽ càng nặng nề và áp lực hơn rất nhiều.

     Trong những năm gần đây, hiện trạng học sinh lười học, chán học ở các trường  không phải là ít. Nhiều học sinh không có hứng thú với môn học nên hầu hết các giờ học thường thấy mệt mỏi, buồn ngủ, tiếp thu chậm từ đó dẫn đến việc nói chuyện, làm việc riêng trong các giờ học. Điều này gây ảnh hưởng lớn đến chất lượng giáo dục.

Từ trước tới nay nhiều người giáo viên vẫn thường quan niệm : trò chơi thì chỉ áp dụng hiệu quả đối với bác bộ môn khác như : ngoại ngữ hay các môn Khoa học tự nhiên….Còn với bộ môn Ngữ Văn – Một bộ môn dạy làm người với những đặc thù, tính chất  riêng thì hiệu quả áp dụng cũng không cao.

Xuất phát từ những thực tiễn đó thiết nghĩ nếu chúng ta không mạnh dạn thử đổi mới, áp dụng phương pháp trò chơi vào dạy học  thì làm sao biết được có hiệu quả hay không? Và làm sao biết được cần áp dụng thế nào cho hợp lí và kết quả tốt.

3.Mục đích của việc áp dụng phương pháp trò chơi trong dạy học môn Ngữ Văn

Trong Luật Giáo dục điều 24.2 đã ghi: “ Phương pháp giáo dục  phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Có thể nói cốt lõi của đổi mới dạy và học là hướng tới hoạt động học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động của học sinh.

Căn cứ vào mục tiêu trên cùng với việc dựa vào đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi học sinh THCS : ham tìm hiểu, tiếp cận, thích cái mới lạ nhưng lại chóng chán. Do đó việc sử dụng các trò chơi học tập trong giờ học Ngữ văn là hết sức cần thiết và có ích. Trò chơi sẽ có tác dụng giúp học sinh:

+ Tăng cường khả năng chú ý nắm bắt nội dung bài học phát huy tính năng động của các em.

+ Nâng cao hứng thú cho người học, góp phần làm giảm mệt mỏi, căng  thẳng trong học tập của học sinh. Phát triển tính độc lập, ham hiểu biết và khả năng suy luận.

+ Tăng cường khả năng thực hành, vận dụng các kiến thức đã học.

+ Thu hút cả lớp theo dõi tham gia các hoạt động.

Trò chơi là phương tiện có ý nghĩa trong việc góp phần thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo và gây hứng thú trong giờ học của học sinh. Ngoài ra thông qua hoạt động trò chơi còn giúp các em phát triển được nhiều phẩm chất đạo đức như tình đoàn kết, thân ái, lòng trung thực, tinh thần cộng đồng trách nhiệm. Do vậy quan điểm “Thông qua hoạt động vui chơi để tiến hành hoạt động học tập” là phù hợp với từng lứa tuổi, từng môn học đặc biệt là đối với môn Văn.

4. Phạm vi của chuyên đề :

Văn bản : Bức thư của thủ lĩnh da đỏ ( Tiết 1)

                                          B. PHẦN NỘI DUNG

I. Giới thiệu một số trò chơi có thể áp dụng trong  quá trình giảng dạy môn Ngữ Văn nói chung.

1. Trò chơi điền bảng (hoạt động nhóm):

* Đặc điểm:

          Trò chơi này dùng trong những giờ ôn tập. Thay bằng việc cho học sinh lập bảng thống kê kiến thức bình thường, ta có thể làm thành những thẻ (tờ phiếu) kiến thức, sau đó phát cho nhóm và yêu cầu các nhóm học sinh dùng thẻ này để điền vào ô trống trên bảng thống kê. Mục tiêu cuối cùng là giúp học sinh thống kê được kiến thức. Cách này nhẹ nhàng mà huy động được sự tham gia của cả lớp.

* Chuẩn bị:  Giáo viên làm một bảng tổng kết trong đó chỉ có đề mục và các tiêu chí thống kê. Phần nội dung các ô trong bảng sẽ được chuyển thành các thẻ, các thẻ này phát cho các nhóm.

* Ví dụ:    Ngữ văn 8 –tập 1 – Tiết 42: ÔN TẬP TRUYỆN KÝ VIỆT NAM

- Trong phần lập bảng thống kê các văn bản truyện ký Việt Nam, ta giữ lại các ô: Tên các tác phẩm, thứ tự, tác giả, tác phẩm, thể loại, năm sáng tác, phương thức biểu đạt, nội dung chủ yếu, đặc điểm nghệ thuật. Các ô nội dung khác bỏ trống để học sinh dán thẻ kiến thức.

TT

Tác phẩm,

tác giả

Thể loại

Năm sáng tác

PTBĐ

Nội dung

chủ yếu

Đặc sắc

 nghệ thuật

01

Tôi đi học

(Thanh Tịnh)

 

 

 

 

 

02

Trong Lòng Mẹ

(Nguyên Hồng)

 

 

 

 

 

03

Tức nước vỡ bờ

(Ngô tất Tố)

 

 

 

 

 

04

Lão Hạc

(Nam Cao)

 

 

 

 

 

- Các nhóm học sinh nhận thẻ kiến thức và tiến hành trao đổi thảo luận để tìm và đưa ra những thẻ kiến thức phù hợp với các ô trống.

- Đại diện các nhóm học sinh lên trình bày và dán phiếu vào bảng tổng kết. Nhóm nào dán đúng thì tất cả thành viên sẽ được khen.

TT

Tác phẩm,

tác giả

Thể loại

Năm sáng tác

PTBĐ

Nội dung chủ yếu

Đặc sắc nghệ thuật

01

Tôi đi học

(Thanh Tịnh)

Truyện ngắn

1941

Tự sự, trữ tình

Những kỷ niệm trong sáng về ngày đầu tiên đến trường.

Tự sự kết hợp với trữ tình; kể chuyện kết hợp miêu tả và biểu cảm, đánh giá;  những hình ảnh so sánh mới mẻ và gợi cảm.

02

Trong Lòng Mẹ

(Nguyên Hồng)

Hồi ký (trích)

1940

Tự sự, trữ tình

Nỗi đau của chú bé mồ côi và tình yêu thương mẹ của chú bé.

Văn hồi ký chân thực, trữ tình thiết tha

03

Tức nước vỡ bờ

(Ngô tất Tố)

Tiểu thuyết (trích)

1939

Tự sự

Phê phán chế độ tàn ác bất nhân và ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng của người phụ nữ nông thôn.

Khắc hoạ nhân vật và miêu tả hiện thực một cách chân thực, sinh động.

04

Lão Hạc

(Nam Cao)

Truyện ngắn (trích)

1943

Tự sự, trữ tình

Số phận bi thảm của người nông dân cùng khổ và nhân phẩm cao đẹp của họ.

Nhân vật được đào sâu tâm lý, cách kể chuyện tự nhiên, linh hoạt, vừa chân thực vừa đậm chất triết lý và trữ tình.

2. Trò chơi: Đọc thơ (hoạt động cá nhân):

* Đặc điểm:

Học sinh thường sợ đọc thuộc lòng các bài thơ hay đoạn thơ (nhất là những đoạn thơ hay bài thơ dài). Nhưng với trò chơi này sẽ giúp học sinh hứng thú hơn và thuộc thơ nhanh hơn. Hoạt động này nên sử dụng sau những tiết học xong bài thơ hoặc ca dao.

* Chuẩn bị:

          - Sau khi học xong bài thơ, giáo viên cho học sinh nhẩm lại bài thơ.

           - Học sinh nhẩm lại các câu thơ trong bài thơ vừa học xong.

* Ví dụ: Ngữ văn 7 – tập 1: Tiết 21: Văn bản: CÔN SƠN CA

 - Sau khi học xong bài thơ này, giáo viên cho học sinh nhẩm lại và sau đó tiến hành thực hiện trò chơi.

- Giáo viên đọc trước một câu:

                   “ Côn Sơn suối chảy rì rầm”.

- Sau đó chỉ định 1 học sinh và yêu cầu học sinh đọc câu thơ tiếp theo:

                    “Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai”.

- Học sinh vừa đọc xong thì có quyền chỉ định một bạn bất kỳ trong lớp đọc tiếp các câu còn lại của bài thơ .

- Tương tự thực hiện cho đến khi hết bài thơ hoặc có yêu cầu dừng của giáo viên.

- Bạn nào đọc sai sẽ làm một hoạt động do lớp hoặc giáo viên yêu cầu.

3. Trò chơi: Thuyết minh biểu tượng (hoạt động nhóm):

* Đặc điểm:

          Trò chơi này kích thích khả năng sáng tạo, trí tưởng tượng và khả năng diễn đạt của học sinh. Nó cũng đơn giản, thích hợp với nhiều giờ học tập làm văn. Mục đích chủ yếu của trò chơi này là kỹ năng làm văn, đặc biệt là đối với văn thuyết minh.

* Cách tiến hành:

          - Giáo viên chia học sinh thành các nhóm (4-8 học sinh, trong đó nên có một số học sinh có năng khiếu về hội hoạ).

          - Mỗi nhóm sẽ vẽ một bức tranh biểu tượng trong khoảng thời gian quy định sau đó thuyết minh ý nghĩa của nó.

          - Từng nhóm lên thuyết trình về biểu tượng của nhóm mình.

          - Các nhóm khác đặt câu hỏi phản biện với nhóm thuyết trình.

          - Giáo viên cần tìm ra một ban giám khảo: Giáo viên và một số học sinh trong lớp.

          -> Lưu ý: Trò chơi này do học sinh thực hiện theo ý tưởng riêng của nhóm, cho nên ban giám khảo cần nhìn nhận và đánh giá cho phù hợp, không nên đánh giá theo ý kiến chủ quan. Với dạng trò chơi này thì cũng có thể áp dụng cho học sinh làm đồ vật sau đó thuyết trình.

* Ví dụ:                                  Ngữ văn 8 – tập một:

Tiết 58: LUYỆN NÓI: THUYẾT MINH VỀ MỘT THỨ ĐỒ DÙNG.

          - Giáo viên chia học sinh thành các nhóm và yêu cầu mỗi nhóm vẽ một đồ vật bất kỳ trong gia đình và giới thiệu về đồ vật đó.

          - Các nhóm sẽ vẽ đồ vật theo ý thích và thuyết trình về đặc điểm, công dụng... của đồ vật đó trong gia đình.

          - Khi trình bày, giáo viên nên cho học sinh treo tranh lên và giới thiệu.

          - HS các nhóm khác nhận xét, bổ sung về bức vẽ, khả năng thuyết trình, kiến thức mà các nhóm trình bày

          - GV nhận xét, khuyến khích nhóm làm tốt

 4. Trò chơi: Giải ô chữ hình thức thứ nhất  (hoạt động nhóm hoặc cá nhân):

* Đặc điểm:

          Trò chơi này khá quen thuộc và đã được áp dụng nhiều nhưng nó lại được sự đón nhận rất nhiệt tình và hứng khởi của các em học sinh. Chính vì thế, nó mang lại hiệu quả cũng rất cao. Trò chơi này thích hợp với một giờ văn học hoặc tiếng Việt. Có thể áp dụng trò chơi này để vào bài hoặc dùng ôn tập ở cuối bài.

*Chuẩn bị:

          - Giáo viên hoặc học sinh soạn ra một bảng ô chữ cùng các câu hỏi đi kèm tương ứng với kiến thức của các ô hàng ngang cần thực hiện. Từ gợi ý của các ô hàng ngang, học sinh dần dần tìm ra nội dung của ô hàng dọc – Đây là ô chính mà nội dung của nó có tầm quan trọng đối với bài học mà học sinh cần nắm chắc và ghi nhớ được.

Hoặc GV có thể tô màu một số chữ trong từ hàng ngang để học sinh tìm từ khóa bằng cách ghép các chữ tô màu đã tìm được

          - Bảng ô chữ này có thể chuẩn bị từ bảng phụ. Để trò chơi mới lạ hơn, giáo viên có thể áp dụng công nghệ thông tin để tạo ra các sile trò chơi trên Powerpoint.

 * Ví dụ 1:  Ngữ văn 8 – tập một: Tiết 33+34 : CHIẾC LÁ CUỐI CÙNG

- Dạy xong bài này, giáo viên cho học sinh tham gia vào trò chơi. Giáo viên có thể chia ra nhóm hoặc cho HS chơi cá nhân.

          - Yêu cầu cầu của trò chơi: Học sinh nắm được những nội dung cơ bản về tác giả O Henri và tác phẩm “Chiếc lá cuối cùng” cũng như các nhân vật trong truyện. Đặc biệt, khi kết thúc trò chơi học sinh phải nắm được một trong những phẩm chất cần thiết của con người trong mọi hoàn cảnh là “NGHỊ LỰC”

          - Giáo viên dùng máy chiếu cho HS (đại diện nhóm) lựa chọn câu hỏi để tìm từ hàng ngang. Nếu HS (nhóm) nào không trả lời được theo thời gian quy định thì phải nhường lượt cho nhóm khác tiếp tục trò chơi.

          - HS (Nhóm) nào tìm được kiến thức ở ô hàng ngang thì được cộng điểm, tìm được ô hàng dọc khi chưa giải hết ô hàng ngang sẽ thắng cuộc (cộng điểm hoặc nhận quà)

          - Cụ thể: Bảng ô chữ như sau:

 

Câu hỏi và đáp án từ hàng ngang:

Câu 1(10 ô chữ): Tên một loài cây trong truyện?

          Đáp án: Thường xuân

Câu 2 (7 ô chữ): Chiếc lá cuối cùng không rụng khiến Giôn-xi như thế nào?

          Đáp án: Hồi sinh

Câu 3 (5 ô chữ): Từ chỉ nghề nghiệp của các nhân vật trong truyện?

          Đáp án: Họa sĩ

Câu 4 (7 ô chữ): Hình ảnh xuyên suốt câu chuyện?

          Đáp án: Chiếc lá

Câu 5 (3 ô chữ): Tên một nhân vật trong truyện?

          Đáp án: Xiu

Từ khóa là: NGHỊ LỰC

Kết quả của trò chơi ô chữ này như sau:

 

* Ví dụ 2:

         Ngữ văn 8 – tập một: Tiết 13+14 : LÃO HẠC

- Để kiểm tra bài cũ kết hợp giới thiệu vào bài tiết 13 “Lão Hạc” GV có thể sử dụng trò chơi ô chữ. Giáo viên chia ra nhóm hoặc cá nhân.

          - Yêu cầu cầu của trò chơi: Học sinh nắm được những nội dung cơ bản về tác giả Ngô Tất Tố và đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” (Trích tiểu thuyết: Tắt đèn)  cũng như tên, đặc điểm các nhân vật trong truyện. Khi kết thúc trò chơi học sinh tìm ra từ khóa là “TÂM HỒN”. GV dùng từ khóa để dẫn dắt vào bài.

          - Giáo viên dùng máy chiếu cho HS (đại diện nhóm) lựa chọn câu hỏi để tìm từ hàng ngang. Nếu HS (nhóm) nào không trả lời được theo thời gian quy định thì phải nhường lượt cho nhóm khác tiếp tục trò chơi.

          - HS (Nhóm) nào tìm được kiến thức ở ô hàng ngang thì được cộng điểm, tìm được ô hàng dọc khi chưa giải hết ô hàng ngang sẽ thắng cuộc (cộng điểm hoặc nhận quà)

          - Cụ thể: Bảng ô chữ như sau:

 

Câu hỏi – đáp án từ hàng ngang:

Câu 1: (Gồm 6 ô chữ): Tên một tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Ngô Tất Tố?

          Đáp án: Tắt đèn

Câu 2: (Gồm 7 ô chữ): Bản chất của Cai Lệ và người nhà Lí Trưởng?

          Đáp án: Bất nhân

Câu 3: (Gồm 8 ô chữ): Điền vào dấu ... để hoàn thành câu sau: “Hình như tức quá không chịu được, chị Dậu ... cự lại”.

          Đáp án: Liều mạng

Câu 4: (Gồm 6 ô chữ): Tên nhân vật chính trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ”?

          Đáp án: Chị Dậu

Câu 5: (Gồm 9 ô chữ) :Năm 1996, Ngô Tất Tố được tặng giải thưởng gì?

          Đáp án: Hồ Chí Minh

Câu 6: (gồm 8 ô chữ ) Tác giả của tác phẩm “Tắt đèn” là ai?

          Đáp án: Ngô Tất Tố

Từ khóa là: TÂM HỒN

Kết quả của trò chơi ô chữ này như sau:

 

* Ví dụ 3:         Ngữ văn 7 – tập một: Tiết 63 : CHƠI CHỮ

- Để kiểm tra bài cũ kết hợp giới thiệu vào bài tiết 63 “Chơi chữ” GV có thể sử dụng trò chơi ô chữ. Giáo viên chia ra nhóm hoặc cá nhân.

          - Yêu cầu cầu của trò chơi: Học sinh nắm được những kiến thức về văn học, tiếng Việt và tập làm văn đã được học

          - Giáo viên dùng máy chiếu cho HS (đại diện nhóm) lựa chọn câu hỏi để tìm từ hàng ngang. Nếu HS (nhóm) nào không trả lời được theo thời gian quy định thì phải nhường lượt cho nhóm khác tiếp tục trò chơi.

          - HS (Nhóm) nào tìm được kiến thức ở ô hàng ngang thì được cộng điểm, tìm được ô hàng dọc khi chưa giải hết ô hàng ngang sẽ thắng cuộc (cộng điểm hoặc nhận quà)

          - Cụ thể: Bảng ô chữ như sau:

Câu hỏi – đáp án từ hàng ngang:

Câu 1: (Gồm 9 ô chữ): Tên vị lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam?

          Đáp án: Hồ Chí Minh

Câu 2: (Gồm 8 ô chữ): Từ được dùng để biểu thị ý nghĩa quan hệ giữa các bộ phận của câu hay giữa câu với câu trong đoạn văn?

          Đáp án: Quan hệ từ

Câu 3: (Gồm 8 ô chữ): Đây là tên 1 bài thơ của tác giả Nguyễn Trãi?

          Đáp án: Côn Sơn ca

Câu 4: (Gồm 12 ô chữ): Tên một bài thơ nổi tiếng của Hồ Xuân Hương?

          Đáp án: Bánh trôi nước

Câu 5: (Gồm 11 ô chữ) : Tên nhà thơ nổi tiếng đời Đường đã xa quê hơn 50 năm lên kinh đô Trường An làm quan

          Đáp án: Hạ Tri Chương

Câu 6: (gồm 6 ô chữ ): Tên gọi của từ được cấu tạo bằng cách ghép các tiếng có nghĩa lại với nhau?

          Đáp án: Từ ghép

Câu 10: (gồm 10 ô chữ ): Tên gọi khác của văn biểu cảm?

          Đáp án: Văn trữ tình

Từ khóa là: CHƠI CHỮ

Kết quả của trò chơi ô chữ này như sau:

 

5. Trò chơi: Giải ô chữ 2 (hoạt động nhóm):

* Đặc điểm:

          Vẫn là hình thức trò chơi giải ô chữ nhưng giáo viên có thể “biến tấu” để trò chơi cuốn hút hơn. Để làm bảng ô chữ này GV tạo ra 1 bảng chia thành các ô vuông nhỏ. Ghi từ khóa vào các ô vuông theo hàng dọc, hàng ngang, hàng chéo. Có thể ghi xuôi hoặc ngược. Ghi chèn các từ làm nhiễu. Trò chơi này có thể áp dụng trong các tiết ôn tập.         

*Chuẩn bị:

          - Giáo soạn ra 1 bảng ô chữ có nội dung cần tìm theo hàng ngang, hàng dọc và hàng chéo. GV đưa ra gợi ý và yêu cầu học sinh tìm.

          - Bảng ô chữ này có thể chuẩn bị từ bảng phụ, trên giấy A0 hoặc trên Powerpoint.

          - Trò chơi này giúp học sinh nhớ kiến thức ngoài ra hình thành tính hợp tác, nhanh mắt cho học sinh.

 * Ví dụ 1:  Ngữ văn 7 – tập hai:

Tiết 130+131: ÔN TẬP VĂN HỌC

- Cuối tiết ôn tập, giáo viên cho học sinh tham gia vào trò chơi để củng cố lại bài học. Giáo viên có thể chia nhóm.

          - Yêu cầu cầu của trò chơi: Học sinh nhớ được tên các tác giả và tác phẩm đã được học trong chương trình ngữ văn 7. Tìm tên tác giả, tác phẩm trong bảng ô chữ theo hàng dọc, hàng ngang, hàng chéo.

          - Giáo viên dùng máy chiếu chiếu ô chữ. HS tập trung tìm tên tác giả, tác phẩm.  Nhóm nào tìm được đủ và nhanh nhất sẽ giành chiến thắng. Nếu không sau thời gian 5 phút nhóm nào tìm được nhiều nhất là nhóm thắng cuộc

          - Cụ thể: Bảng ô chữ như sau:

 

Kết quả HS có thể tìm

 

6. Trò chơi hộp quà may mắn (Ô số may mắn)

* Đặc điểm:

          Khi tham gia trò chơi chính là lúc học sinh hình thành kiến thức mới, ôn tập kiến thức đã học hay vận dụng vào làm bài tập. Nhưng học sinh lại rất nhiệt tình và hứng khởi. Học sinh vui vẻ khi gặp hộp quà (ô số) may mắn, vỡ òa với những phần thưởng bất ngờ. Còn khi gặp những hộp quà (ô số) chứa câu hỏi học sinh cũng cố gắng làm tốt. Chính vì thế, trò chơi này mang lại hiệu quả rất cao. Trò chơi này thích hợp với một giờ văn học hoặc tiếng Việt.

  *Chuẩn bị:

          - Giáo viên có thể sử dụng máy chiếu hoặc trực tiếp chuẩn bị các hộp quà với màu sắc khác nhau cùng các câu hỏi đi kèm tương ứng với kiến thức cần hình thành.

          - Giáo viên cho học sinh chọn hộp quà trước hoặc có thể chọn câu hỏi trước để trả lời. Đây là những câu hỏi mà nội dung của nó có tầm quan trọng đối với bài học mà học sinh cần nắm chắc và ghi nhớ được nhất là để hình thành các khái niệm.

          - Các hộp quà này có thể chuẩn bị sẵn. Để trò chơi mới lạ hơn, giáo viên có thể áp dụng công nghệ thông tin để tạo ra trò chơi.

* Ví dụ:

         Ngữ văn 7 – tập hai: Tiết 103: Chuyển đổi câu chủ động thành câu bị động

          - Dạy xong bài này, giáo viên cho học sinh tham gia vào trò chơi. Giáo viên chia ra nhóm hoặc cá nhân.

          - Yêu cầu cầu của trò chơi: Học sinh vận dụng những kiến thức đã học để làm bài tập

          - Luật chơi: GV chuẩn bị 3 hộp quà (hoặc 3 ô số). Trong mỗi hộp quà (ô số) có chứa 1 câu hỏi và 1 phần quà hấp dẫn. Nếu trả lời đúng thì phần quà sẽ hiện ra. Nếu trả lời sai thì HS sẽ không được nhận quà và nhường quyền trả lời cho bạn khác. Thời gian suy nghĩ cho mỗi câu trả lời GV sẽ căn cứ vào nội dung câu hỏi. Điều đặc biệt là trong các hộp quà (ô số) sẽ có 1 ô may mắn. Khi mở được ô may mắn học sinh có thể được nhận ngay 1 phần quà. Phần quà có thể là điểm cộng, chiếc bút, cục tẩy....nhiều khi rất bất ngờ có thể chỉ là 1 tràng pháo tay của cả lớp.

- GV chuẩn bị ô số trên máy chiếu

 

Ô số 1:

 

Ô số 2:

 

Ô số 3:

 

7. Trò chơi “Nhìn hình bắt chữ” (Hoạt động cá nhân)

* Đặc điểm:

          Thay vì yêu cầu học sinh tìm từ (trái nghĩa, đồng nghĩa, đồng âm), thành ngữ, câu ca dao hay tục ngữ... giáo viên có thể tổ chức cho học sinh chơi trò chơi “Nhìn hình bắt chữ”. Giáo viên đưa ra những hình ảnh có tính chất gợi mở, học sinh dễ dàng thực hiện yêu cầu của GV với sự hào hứng, nhiệt tình

  *Chuẩn bị:

          Giáo viên có thể sử dụng máy chiếu hoặc dùng tranh ảnh.

Sau khi tìm từ, thành ngữ, câu tục ngữ, ca dao GV có thể hỏi ý nghĩa của các từ, thành ngữ, câu....Hoặc cách vận dụng bài học trong các thành ngữ, câu ca dao, tục ngữ vào cuộc sống....

          Trò chơi này góp phần củng cố khả năng diễn đạt, nhanh nhạy của HS đồng thời còn phát huy được những kiến thức mà học sinh đã biết.

* Ví dụ:

Ngữ văn 7 – tập hai. Tiết 77+78: Tục ngữ về thiên nhiên lao động, sản xuất

          - Sau khi học xong bài “Tục ngữ về thiên nhiên lao động và sản xuất” giáo viên tổ chức trò chơi “Nhìn hình đoán tục ngữ”. Từ hình ảnh gợi ý em hãy đọc chính xác câu tục ngữ tương ứng.

          - Sau khi HS tìm ra câu tục ngữ ngữ GV có thể hỏi thêm: Ý nghĩa của câu tục ngữ này là gì?

          - GV có thể nhận xét, bổ sung hoàn thiện câu trả lời của HS

          - Một số hình ảnh có thể dùng làm gợi ý trong bài này:

 

1.2.8. Trò chơi “Lật mảnh ghép - Đoán hình nền” (Hoạt động cá nhân)

* Đặc điểm:

          Trò chơi này thực hiện khá đơn giản. GV có thể sử dụng 1 bức ảnh, bức tranh... làm hình nền. Bức ảnh/ tranh có liên quan đến nội dung bài học hoặc kiến thức quan trọng mà học sinh cần ghi nhớ. Trò chơi này tạo ra dựa trên sự tò mò, ham khám phá của học sinh vì vậy rất được học sinh yêu thích. HS cố gắng trả lời các câu hỏi để lật các mảnh ghép che khuất hình nền. Các câu hỏi được giải quyết một cách nhanh chóng, vui vẻ. Trò chơi này thích hợp với một giờ văn học. Có thể sử dụng ở phần khởi động hoặc phần củng cố bài.

  *Chuẩn bị:

          Giáo viên có thể sử dụng máy chiếu hoặc dùng giấy A3-A2. GV chuẩn bị hình nền (bức tranh, ảnh) sau đó dùng các mảnh ghép có đánh số che dấu hình nền. HS sẽ trả lời các câu hỏi tương ứng với từng mảnh ghép để mở mảnh ghép. Căn cứ vào nội dung câu hỏi, câu trả lời và những mảnh ghép đã được hé mở học sinh có thể biết được hình nền được ẩn dấu. Khi hình nền được mở GV có thể yêu cầu HS giới thiệu về hình nền này.

          Trò chơi này góp phần củng cố khả năng diễn đạt, nhanh nhạy của HS đồng thời còn phát huy được những kiến thức mà học sinh đã biết.

          - Lưu ý: GV nền chọn những hình nền có ý nghĩa, và khó đoán khi chỉ mở được một vài mảnh ghép

* Ví dụ:

         Ngữ văn 8 – tập một: Tiết 9: Tức nước vỡ bờ

- Giáo viên dùng trò chơi “Đoán hình nền” để củng cố những kiến thức vừa học và những kiến thức văn học của các bài trước.

- GV chuẩn bị hình nền và 6 mảnh ghép che khuất hình nền

- HS sẽ lần lượt chọn mảnh ghép. Mỗi mảnh ghép là 1 câu hỏi. Trả lời đúng câu hỏi mảnh ghép sẽ được lật mở.

- Khi mảnh ghép được lật mở HS sẽ đoán ra được hình nền.

- Nếu đoán đúng hình nền GV có thể yêu cầu HS giới thiệu về hình nền mà em vừa lật mở

Các sile có thể sử dụng:

Hình nền khi đã được lật hết các mảnh ghép

 

Hình nền này minh họa cho 1 câu thành ngữ đồng thời cũng chính là tên 1 đoạn trích trong chương trình Ngữ văn 8 HKI: TỨC NƯỚC VỠ BỜ.

          HS có thể trình bày suy nghĩ của mình về hình nền này

9. Trò chơi “Đoán ca dao, đào tục ngữ, ghép thành ngữ” (Hoạt động cá nhân)

* Đặc điểm:

          Đây là một trò chơi rất phổ biến trên điện thoại, máy tính. Căn cứ vào hình thức của trò chơi này giáo viên có thể vận dụng để tạo thành những trò chơi cho phù hợp với nội dung bài dạy. Thay vì dùng hình ảnh như trong trò chơi “Nhìn hình đoán chữ” giáo viên sẽ đưa ra từ gợi ý. Trò chơi này đòi hỏi học sinh phải có 1 vốn ca dao, tục ngữ hoặc thành ngữ phong phú. Sau khi tìm được các câu ca dao, tục ngữ hoặc thành ngữ giáo viên có thể yêu cầu HS trình bày những kiến thức có liên quan.

  *Chuẩn bị:

          - Cách 1: Giáo viên có thể sử dụng máy chiếu hoặc bảng phụ kẻ ô, ghi từ gợi ý và các từ dùng để làm nhiễu

          - Cách 2: GV ghi các từ gợi ý và các từ làm nhiễu ra giấy nhớ. GV yêu cầu HS ghép thành 1 câu tục ngữ, ca dao hoặc thành ngữ

- Sau khi tìm thành ngữ, câu tục ngữ, ca dao GV có thể hỏi ý nghĩa của các thành ngữ, câu tục ngữ, câu ca dao đó....Hoặc cách vận dụng bài học trong các thành ngữ, câu ca dao, tục ngữ vào cuộc sống....

          Trò chơi này góp phần củng cố khả năng diễn đạt, nhanh nhạy của HS đồng thời còn phát huy được những kiến thức mà học sinh đã biết.

* Ví dụ:

                   Ngữ văn 7 – tập một. Tiết 52: Thành ngữ

          - Sau khi học xong bài “Thành ngữ” giáo viên tổ chức trò chơi “Ghép thành ngữ”. Từ những từ gợi ý em hãy đọc chính xác câu thành ngữ tương ứng.

          - Sau khi HS tìm ra câu thành ngữ GV có thể hỏi thêm: Ý nghĩa của câu thành ngữ này là gì?

          - GV có thể nhận xét, bổ sung hoàn thiện câu trả lời của HS

          - Một số hình ảnh có thể dùng làm gợi ý trong bài này:

 

Trên đây chỉ là một số rất ít ví dụ  của việc áp dụng  phương pháp trò chơi vào giảng dạy môn Ngữ Văn .Chúng ta có thể thiết kế rất nhiều trò chơi với các hình thức khác nhau để thay đổi sao cho phù hợp với nội dung bài học và phù hợp với đối tượng học sinh.

2. Áp dụng phương pháp chơi trò chơi vào giảng dạy một tiết Ngữ Văn 6, văn bản “Bức thư của thủ lĩnh da đỏ”(Tiết 1)

- Sau đây là những dự kiến về  việc áp dụng phương pháp chơi trò chơi vào các hoạt động và nội dung  của bài học cụ thể như sau :

Một là : Hoạt động khởi động

Giáo viên tổ chức cho học sinh chơi trò chơi : THI KHÁM PHÁ TRANH

- Giáo viên chia lớp làm các đội, nhóm thích hợp

- Chiếu một số các bức tranh yêu cầu học sinh trong vòng 5 phút tìm ra những hiện tượng được nói tới trong bức tranh.

Cụ thể :

- Chiếu tranh :

-Yêu cầu  : Quan sát thật kĩ các nhóm bức tranh sau và cho biết mỗi nhóm bức tranh nói tới hiện tượng gì?

- Trong thời gian 5 phút đội, nhóm nào tìm được nhiều đáp án đúng, hợp lí đội đó dành chiến thắng.

Giáo viên kết thúc bằng câu hỏi để vào bài :

? Tất cả các bức tranh trên đều đề cập tới vấn đề gì ?

( Môi trường và tài nguyên thiên nhiên)

Hai là : Hoạt động hình thành kiến thức mới

Phần I : Tìm hiểu chung

- Giáo viên tổ chức trò chơi : BÔNG HOA TRI THỨC (Gồm có 2 vòng thi)

+ Đầu tiên chia lớp thành các đội, nhóm phù hợp

+ GV Chuẩn bị cho mỗi nhóm (đội) một bông hoa gồm có phần nhụy hoa to ở giữa (dùng để chơi khớp chữ với tranh) , bao quanh là 4 cánh hoa, mỗi cánh tương ứng với một nội dung đã được chỉ  dẫn sẵn ( xuất xứ, kiểu văn bản, phương thức biểu đạt,  bố cục…..) . Học sinh lần lượt hoàn thành nội dung câu hỏi bắt đầu từ  phần nhụy hoa sau đó đến các cánh hoa

+ Nội dung thi có 2 vòng :

Vòng một  : Nối chữ với tranh sao cho phù hợp

+ GV dán phần nhụy hoa lên bảng có in sẵn tranh ảnh

+ Phát cho mỗi đội  những mảnh giấy có in sẵn phần nội dung câu trả lời của một số chú thích  SGK, yêu cầu học sinh trong 2 phút  ghép những mảnh giấy đó với các bức tranh sao cho phù hợp với nội dung

+ Kết thúc vòng 1 đội nào nhanh, chính xác sẽ dành chiến thắng. (1-0)

àSau khi trò chơi kết thúc thì dự kiến kết quả như sau

 

Vòng 2 :  Hoàn thiện nội dung thông tin

+ Giáo viên phát cho mỗi đội 4 cánh hoa, trên mỗi cánh hoa có ghi sẵn nội dung yêu cầu

+ Trong vòng 3 phút học sinh sẽ hoàn thiện thông tin cho mỗi nội dung yêu cầu, sau 3 phút đội nào hoàn thiện xong trước và chính xác sẽ là đội dành chiến thắng

àGiáo viên tổng kết điểm 2 phần, công bố đội thắng cuộc và trao giải thưởng.

Giáo viên hỏi : Bằng những hiểu biết của mình em hãy hoàn thiện các nội dung : Xuất xứ, kiểu văn bản, phương thức biểu đạt, bố cục

Cánh 1 : Xuất xứ

Cánh 2 : Kiểu văn bản

Cánh 3 : Phương thức biểu đạt

Cánh 4 : Bố cục

Sau khi hoàn thiện ta được một bông hoa có đầy đủ nội dung phần tìm hiểu chung của văn bản

Ngoài phương pháp chơi trò chơi giáo viên còn áp dụng một số các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực khác để giờ dạy đạt hiệu quả cao

3. Kết quả :


Tổng số điểm của bài viết là: 61 trong 14 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Bài tin liên quan
Chính phủ điện tử
Tin đọc nhiều
Liên kết website
Thống kê truy cập
Hôm nay : 26
Hôm qua : 151
Tháng 04 : 3.559
Năm 2024 : 15.304